Go to Top
Trang chủ > Tin tức > Bùng nổ xuất khẩu tại Việt Nam: Cơ hội hay thách thức?

Bùng nổ xuất khẩu tại Việt Nam: Cơ hội hay thách thức?

Bùng nổ xuất khẩu là thông tin tích cực đối với Việt Nam, nhưng cũng đem lại nhiều thách thức khi các doanh nghiệp không đáp ứng kịp với sự thay đổi này.

Bùng nổ xuất khẩu tại Việt Nam: Cơ hội hay thách thức?

Không giống như nhiều nền kinh tế ở Châu Á và trên thế giới, Việt Nam hiện đang có nhiều tin tức tích cực về kinh tế. Tuy nhiên, đằng sau những yếu tố khả quan này là các vấn đề về cơ cấu và sự thiếu chiều sâu của ngành công nghiệp.

Xuất khẩu của Việt Nam đã tăng trưởng 18% so với cùng kỳ năm ngoái và tăng 10% từ đầu năm đến nay. Giải ngân vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã tăng khoảng 9,6% so với cùng kỳ, đặc biệt là các dự án đầu tư nhà máy sản xuất điện thoại, ti vi và màn hình máy tính của Samsung.

Chỉ số Nhà quản trị mua hàng (PMI) của Việt Nam quý II/2015 vẫn giữ trên mức 50 điểm, cho thấy sự mở rộng liên tục của ngành sản xuất. Hơn nữa, chỉ báo tương lai – phản ánh chênh lệch giữa đơn đặt hàng mới và sản phẩm tồn kho – cho thấy sẽ có một đợt tăng trưởng sản suất của các doanh nghiệp vào nửa cuối năm 2015.

Tăng trưởng tín dụng trong nước đạt 17% so với cùng kỳ năm ngoái, cho thấy nhu cầu nội địa đang dần phục hồi sau khi trầm lắng trong những năm gần đây.

Đặc biệt, thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam là Mỹ sẽ mở cửa hơn cho các doanh nghiệp xuất khẩu sau khi Hiệp định Đối tác Chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP) sắp hoàn thành.

Hạ viện Mỹ đã thông qua quyền đàm phán nhanh (TPA) cho Tổng thống Barack Obama. Đáp lại, chính phủ Việt Nam đã tuyên bố dỡ bỏ quy định giới hạn sở hữu đối với nhà đầu tư nước ngoài vào nhiều ngành, ngoại trừ những lĩnh vực nhạy cảm như quân sự và ngân hàng.

Tuy nhiên, tăng trưởng xuất khẩu mạnh mẽ của Việt Nam diễn ra trong tình hình đồng VND tăng lên vài tháng gần đây. Do đồng VND neo vào đồng USD nên khi đồng bạc xanh của Mỹ tăng giá so với một rổ các đồng tiền chủ chốt trên thế giới (như Yên và Euro), VND cũng sẽ tăng theo.

Điều này sẽ ảnh hưởng đến giá cả hàng hóa Việt Nam trong giao dịch thương mại, mặc dù tỷ giá VND/USD đã được điều chỉnh giảm 1-2% trong những tháng gần đây.

Theo nhiều chuyên gia, việc điều chỉnh tỷ giá có thể được thúc đẩy từ sự suy giảm 12,6% lượng khách du lịch quốc tế trong 5 tháng đầu năm so với cùng kỳ năm ngoái. Một nguyên nhân nữa là sự gia tăng đột ngột trong nhập khẩu, chủ yếu là máy móc và thiết bị ô tô, khiến thâm hụt thương mại tính đến tháng 5/2015 ước khoảng 3,7 tỷ USD.

Trong một nỗ lực nhằm duy trì niềm tin đối với đồng VND và ổn định nền kinh tế vĩ mô, thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã thông báo rằng tỷ giá USD sẽ không bị điều chỉnh tăng quá 2%.

Với triển vọng xuất khẩu sẽ tăng trưởng mạnh trong những tháng tới và sự kiện Đại hội Đảng lần thứ 12 diễn ra vào nửa đầu năm 2016, cam kết trên khó có thể bị phá vỡ.

Trong ngắn hạn, thay vì điều chỉnh tỷ giá, Việt Nam có thể nỗ lực ngăn chặn đà giảm của khách du lịch. Lượng khách du lịch nước ngoài giảm đã dẫn đến việc cải cách thị thực nhập cảnh. Tuy nhiên, thách thức lớn hơn lại là tình trạng gia tăng nhập khẩu và kém phát triển chiều sâu trong ngành công nghiệp của Việt Nam.

Chính phủ có thể áp dụng các biện pháp hành chính như tăng thuế với các mặt hàng nhập khẩu xa xỉ như ô tô. Tuy nhiên, việc gia tăng nhập khẩu máy móc, nguyên vật liệu và các sản phẩm đầu vào xảy ra cùng lúc với sự tăng trưởng của ngành sản xuất cho xuất khẩu đã chỉ rõ yếu điểm của Việt Nam. Ngành sản xuất đã quá phụ thuộc vào lợi thế lao động giá rẻ mà không phát triển được về chiều sâu.

Chẳng hạn, ngành dệt may của Việt Nam cho đến gần đây vẫn bị chi phối bởi các công ty quốc doanh có hiệu quả hoạt động kém. Vì vậy, việc gia tăng xuất khẩu hàng dệt may đồng nghĩa với việc phải tăng nhập khẩu nguyên vật liệu (sợi, vải, máy móc) từ nước ngoài (chủ yếu từ Trung Quốc) để có thể đáp ứng được số lượng và chất lượng, vốn luôn thay đổi nhanh chóng, của ngành thời trang quốc tế.

Tương tự như vậy, sự gia tăng sản xuất và xuất khẩu điện thoại di động của các công ty đầu tư nước ngoài như Nokia, Samsung đồng nghĩa với việc tăng nhập khẩu các thiết bị, linh kiện bởi hầu như không có doanh nghiệp Việt Nam nào sản xuất được những sản phẩm này trong nước.

Việc thiếu phát triển chiều sâu ngành công nghiệp rõ ràng là một thách thức trong dài hạn mà biện pháp điều chỉnh tỷ giá không thể giải quyết thỏa đáng. Lập trường của NHNN là duy trì niềm tin vào đồng VND và ổn định nền kinh tế vĩ mô, nhưng quan điểm này cũng cho thấy sự chú ý được tập trung chủ yếu vào việc cải cách ngành ngân hàng và các doanh nghiệp quốc doanh. Động thái bỏ giới hạn sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài ngoại trừ ngành ngân hàng cho thấy sự quan tâm đặc biệt của chính phủ trong lĩnh vực này.

Nếu đồng USD tiếp tục tăng giá so với các đồng tiền chủ chốt trong ngắn hạn và nếu cán cân thương mại Việt Nam tiếp tục xấu đi, áp lực giảm giá đồng VND có thể gia tăng.

Đến một mức độ nào đó, NHNN có thể vẫn duy trì cam kết 2% bằng nhiều biện pháp khác nhau, nhưng vấn đề thực sự của nền kinh tế Việt Nam nằm trong ngành công nghiệp.

Các doanh nghiệp trong nước không đủ sức hỗ trợ cho sự bùng nổ xuất khẩu, không đủ khả năng tăng năng suất sản xuất nguyên vật liệu hay sản phẩm đầu vào cũng như các máy móc cần thiết cho ngành công nghiệp kỹ thuật cao. Nói cách khác, Việt Nam thiếu chiều sâu trong ngành công nghiệp.

Rõ ràng, giải pháp bền vững cho vấn đề gia tăng nhập khẩu gây thâm hụt thương mại ở Việt Nam là cải tổ cơ cấu các công ty quốc doanh và cải thiện năng suất của những doanh nghiệp nhà nước còn lại.

Hiện tiến trình tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam đang bị chậm tiến độ và NHNN cũng như chính phủ đang cố gắng thúc đẩy nhằm đạt mục tiêu cải cách đã đề ra trong năm nay.

Hoàng Nam – Theo East Asia Forum